Xem lễ tế sống lính đảo Hoàng Sa xưa
“Hoàng Sa trời nước mênh mông/Người đi thì có mà không thấy về/Hoàng Sa mây nước bốn bề/Tháng hai khao lề thế lính Hoàng Sa”…có thể nói đây là “lời tóm tắt số phận của những người đi lính Hoàng Sa, Trường Sa từ thủa xa xưa”. Trước, vua Tự Đức gọi họ là hùng binh. Nay, các bậc cao niên vẫn gọi họ là tiền hiền, còn những người trẻ như chúng tôi muốn gọi họ là bậc anh hùng tiền bối bảo vệ chủ quyền biển - đảo thiêng liêng của tổ quốc.
Trong 2 ngày 20 và 21 – 4 (15 và 16 - 3 âm lịch) chúng tôi đã có mặt tại huyện đảo Lý Sơn để đón dự Lễ hội khao lề thế lính Hoàng Sa. Hầu hết các họ tộc trên đất đảo Lý Sơn có người đăng lính Hoàng Sa, Trường Sa đều thực thi lễ thức này. Cách xa Quảng Ngãi khoảng 14 hải lý, ẩn hiện trong trời biển ba đảo xanh mờ. Trông chúng như những phiến thạch “chắn gió” cho đất liền tổ quốc giữa trùng khơi mênh mông. Khi tàu còn cách bờ chừng một hải lý, khách đã có thể trông thấy cờ hoa bay rợp trời. Nghe tiếng hội đã kề bên tai.
Háo hức lễ khao lề thế lính Hoàng Sa
Không như suy nghĩ ban đầu của hầu hết người trong đoàn, đảo Lý Sơn khá đông đúc. Và một khi gần hai vạn cư dân của đảo lớn và đảo bé cùng đi lễ hội thì đường sá cũng trở nên đông đúc không khác gì hội làng ở Bắc Bộ. Lễ khao lề diễn ra trong hương khói nghi ngút thiêng liêng, lời phú chú lầm rầm trên nền nhạc bát âm hoặc ngũ âm xen lẫn tiếng mõ thị uy của thầy phù thủy với áo thụng, mũ tam sơn. Bên cạnh hình nhân và linh vị là người lính Hoàng Sa – người lính ấy luôn đứng hầu thần suốt buổi tế bằng chính niềm tin là lời nguyện cầu của chính mình, của tộc họ thấu suốt đấng linh thiêng và ngón nghề ấn quyết của thầy phù thủy sẽ xua được tà ma quỷ ám trên dặm dài sóng nước. Sau khi lễ thức kết thúc những hình nhân và linh vị cùng những thứ tượng trưng mà người đi lính Hoàng Sa, Trường Sa thường mang theo như gạo, muối, nước ngọt, củi, lưới... được thả bằng thuyền chuối ra biển.
Hầu hết các họ tộc trên đất đảo Lý Sơn đều có người đăng lính Hoàng Sa, Trường Sa. Bởi vậy, hầu hết các họ tộc đều thực thi các lễ thức trong tháng hai âm lịch hàng năm. Sau các họ tộc là đến lễ hội chung, đông hơn và quy tụ hầu hết con dân xứ đảo. Ông Võ Xuân Huyện, nguyên Chủ tịch UBND huyện Lý Sơn nói với chúng tôi: “Các năm trước bà con tự đứng ra tổ chức lễ hội khao lề, năm nay có thêm sự giúp đỡ của tỉnh nên lễ hội đông vui hơn. Tuy nhiên, năm nào cũng vậy, bà con tổ chức rất linh đình, quy tụ. Bởi lễ hội là của chính họ, là dịp họ tỏ tấm lòng thành kính với các bậc tổ tiên đã quên mình mà bảo vệ chủ quyền biển - đảo của tổ quốc thiêng liêng”.
Tế lễ khao lề thế lính Hoàng Sa tại đảo Lý Sơn, Quãng Ngãi
Trong lễ hội lần này, một nhân vật đặc biệt, người duy nhất có thể đọc thuộc lòng bài Chân tế Hoàng Sa – một trong hai bài tế bắt buộc trong nghi thức hành lễ, dài gần 5.000 chữ. Trong gần trọn buổi sáng bài chân tế của ông đã tạo nên một không khí nghiêm trang, một khí thế thổi vào lòng người dự lễ. Ông tên là Nguyễn Trung Thành, hơn 70 tuổi, lặn lội từ huyện Long Thành (Đồng Nai) về quê trong dịp này, là hậu duệ đời thứ 8 của dòng họ Nguyễn Văn. Ông Thành cho biết: “Tui sống ở miền Nam, cứ đến lễ là đứng ngồi không yên. Kiểu chi cũng phải bắt xe về quê. Bài chân tế đến nay chỉ mình tui thuộc nên không về không đặng!”. Đời cố, đời ông nội, đến đời cha đã truyền lại cho ông bài chân tế, và ông vẫn tiếp tục như là một “nghiệp” vận vào thân cho đến nay. Và ông, như con sóng liền vào con sóng trước để tạo nên sức mạnh mênh mông trên mặt biển khơi, từ đời này qua đời khác.
Tri ân
Nếu là để chia tay những người đăng lính thì đó là lễ thức khao lề thế lính, còn nếu là để tưởng niệm người đăng lính đã bỏ mạng trên dặm dài sóng nước, thì đó là lễ thức khao lề tế lính. Mà thường là cho cả hai, thế người còn sống và tế người đã chết. Khao lề chỉ là lệ khao định kỳ hàng năm (như hình thức cúng việc lề mà một số nơi trong nước còn gìn giữ), song thế lính lại là nghi lễ mang đậm dấu ấn của đạo giáo nhằm thế mạng cho người đi lính, bởi người đi lính Hoàng Sa sẽ phải luôn đối mặt với bão tố, sóng ngầm.
Cầu nguyện cho những linh hồn người bảo vệ biển đảo năm xưa
Lần giở trong sử sách và lưu truyền trên đất đảo Lý Sơn, người lính Hoàng Sa năm xưa phải lênh đênh cùng sóng nước trong 6 tháng nhưng chỉ với những chiếc thuyền câu nên số phận xem như đành gửi theo mây trời, bọt biển. Để có cơ may xác mình còn được yên lành trôi về bản quán, trước khi ra đi mỗi người đi lính Hoàng Sa phải tự chuẩn bị riêng cho mình: 1 đôi chiếu, 7 đòn tre, 7 sợi dây mây và 1 thẻ bài. Nếu không may ngã xuống thì đôi chiếu, những chiếc đòn tre và các dây mây kia là vật dụng để bó xác người. Người chết sẽ được thả trôi trên biển cùng chiếc thẻ bài đã được ghi tên phiên hiệu. Nhưng chắc hẳn cũng chẳng mấy xác người được may mắn trở về được bản quán. Những tên tuổi ghi trong sử sách như Cai đội Phạm Quang Ảnh (Ất Hợi, 1815), Chánh thủy quân suất đội Phạm Văn Nguyên (Ất Mùi, 1835), Chánh thủy quân suất đội Phạm Hữu Nhật (Bính Thân, 1836)... là những người được vua Gia Long, vua Minh Mạng cử đi Hoàng Sa, kiêm quản Trường Sa không phải chỉ để tìm kiếm sản vật, đo đạc thủy trình, tuần phòng trên biển đảo mà cắm mốc, dựng bia chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy biết khó cơ may trở về, nhưng con người vẫn hy vọng dù rất mỏng manh. Như để cứu vớt niềm hy vọng ấy, trước khi ra đi, cùng với việc họ tộc bàn soạn lễ vật, thầy phù thủy sẽ nặn hình nhân thế mạng bằng bột gạo, hoặc bằng đất sét.
Xưa kia, hằng năm các chúa Nguyễn tuyển 70 dân đinh, giỏi nghề đi biển ở các làng An Vĩnh và An Hải tại vùng cửa biển Sa Kỳ đến dân đinh đảo Lý Sơn, giương buồm nương theo gió nồm vượt sóng ra quần đảo Hoàng Sa. Cứ tháng hai đến nhận lệnh ra đi và tháng tám trở về cửa Eo (Thuận An, Thừa Thiên - Huế) để nộp cho kinh thành Huế những sản vật tìm được. Theo gia phả, các bản khế ước, các sổ đinh, các văn bản định suất thuế khóa của các dòng họ trên đảo Lý Sơn và những gì lưu truyền trong trí nhớ của nhiều bô lão, 70 suất đinh định chế đi Hoàng Sa và sau này cả Trường Sa, nhiều nhất vẫn là người của làng An Vĩnh trên đảo Lý Sơn. 70 suất đó được phân đều cho các tộc họ, không phân biệt tiền hiền hay hậu hiền...
Bài, ảnh: Quốc Toàn